Thành phố Hồ Chí Minh đã kiên cường phát huy truyền thống hào hùng, giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện. (Ảnh: Nhật Quang)
Lời tòa soạn: 45 năm mang huân danh “Thành phố Hồ Chí Minh” (02/07/1976 – 02/07/2021), với bao thăng trầm, khó khăn thử thách, Thành phố Hồ Chí Minh đã kiên cường phát huy truyền thống hào hùng, vững vàng vượt qua bao trở ngại, giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, tạo nên nhiều đặc trưng mang thương hiệu đặc thù của Thành phố rực rỡ tên vàng. Trang tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh xin giới thiệu loạt bài viết của PGS.TS Phan Xuân Biên, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, nhân kỷ niệm 45 năm Thành phố Sài Gòn – Gia Định chính thức mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài 1: Nhiều đặc trưng mang thương hiệu của Thành phố rực rỡ tên vàng
(Thanhuytphcm.vn) – Cuộc kháng chiến trường kỳ 30 năm giành lại độc lập dân tộc, thống nhất non sông được Sài Gòn – Gia Định mở đầu oanh liệt với “Mùa thu rồi ngày hai ba” và kết thúc vẻ vang với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thành phố được cả nước chấm công xứng đáng mang huân danh “Thành phố Hồ Chí Minh” – Hồ Chí Minh anh hùng của một dân tộc anh hùng, đỉnh cao văn hóa của một nước văn hiến, được hiến định bởi Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (khóa VI) ngày 02/07/1976.
45 năm qua (02/07/1976 – 02/07/2021), với bao thăng trầm, khó khăn thử thách, Thành phố Hồ Chí Minh đã kiên cường phát huy truyền thống hào hùng, vững vàng vượt qua bao trở ngại, giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, tạo nên nhiều đặc trưng mang thương hiệu đặc thù của Thành phố rực rỡ tên vàng.
Năng động, sáng tạo, tìm đường phát triển mới
10 năm đầu mang huân danh “Thành phố Hồ Chí Minh” (1976 – 1986) là 10 năm khó khăn nhất, đồng thời ghi đậm dấu ấn về bản lĩnh, trách nhiệm, nhiệt thành của Đảng bộ và nhân dân Thành phố, là thời đoạn lịch sử để lại những bài học quý giá cho sự nghiệp xây dựng, phát triển Thành phố. Trong bối cảnh của một thành phố thời hậu chiến, bị các thế lực phản động gây hấn, bị bao vây cấm vận, liên tiếp chịu ảnh hưởng của thiên tai ở Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là bị tác động mạnh của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, những cuộc cải tạo nền kinh tế cũ đã tác động xấu đến sản xuất kinh doanh; giá cả tăng phi mã (1978 so với 1977 tăng 15,3%); 1981 so với 1980 tăng 41%). Theo đó, đời sống nhân dân sa sút thê thảm. Lần đầu tiên trong lịch sử, người dân Thành phố phải ăn độn, từ khoai sắn đến bo bo, có lúc độn đến 90%. Thành phố phải chạy ăn từng bữa cho 3,5 triệu dân. Đỉnh điểm của sự khủng hoảng là 1979 – 1980, kéo theo hệ lụy của sự khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng lòng tin trong dân chúng. Công nhân bỏ nhà máy, xí nghiệp; công chức rời công sở; giáo viên bỏ trường học…, nhiều người dân ngậm ngùi rời thành phố, tạo nên làn sóng “thuyền nhân” vượt biên di tản… khó khăn chồng chất, có lúc tưởng chừng như không vượt qua được.
Thành phố mang tên Bác cần phải nỗ lực phát huy những thành tựu to lớn, toàn diện, trước hết phải giữ vững vị trí đầu tàu, động lực phát triển kinh tế của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước. (Ảnh: Nhật Quang)
Những vị lãnh đạo cao nhất thuộc “đời đầu” của Thành phố Hồ Chí Minh vốn đã được trui rèn trong bao thử thách khốc liệt, được nhân dân đùm bọc đã thẩm thấu lời dạy của Bác Hồ: “độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì…”[1], “Dân dĩ thực vi Thiên”[2], “Dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi”, đã mạnh dạn tìm mọi giải pháp để lo cho dân, lo cho sản xuất, kinh doanh, vực Thành phố ra khỏi cơn khủng hoảng, vừa chạy gạo từng bữa cho hơn 3 triệu dân, vừa thành lập Tổ thu mua lương thực, lặn lội xuống tận Đồng bằng sông Cửu Long, chịu sự hạch sách, dọa nạt, thậm chí bắt bớ, giam cầm để thu mua lương thực, tạo nên “hạt gạo Cô Ba Thi” nuôi sống Thành phố. Tiến hành khảo sát thực tế các cơ sở sản xuất kinh doanh, hiệu triệu giai cấp công nhân, nhân dân lao động, viên chức nhà nước phải “tự cứu lấy mình” với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm nhằm thoát ra khỏi sự trói buộc của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, duy ý chí, tìm ra những biện pháp xác đáng giải quyết những vấn đề trọng yếu và bức xúc của Thành phố. Một phong trào hành động cách mạng của quần chúng được khơi dậy và ngày càng dâng cao, có người ví như phong trào Đồng Khởi thời kháng chiến.
Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (khóa I) đã có 2 Nghị quyết quan trọng là Nghị quyết lần thứ 9 (1979) và Nghị quyết lần thứ 10 (1980) đề ra những hướng đột phá theo tinh thần chủ động sáng tạo từ cơ sở. Đồng thời, Thành phố đề ra “tìm nguồn nguyên liệu cho sản xuất”, lập Công ty xuất nhập khẩu trực tiếp (Direximco) và xuất – nhập khẩu Chợ Lớn (Cholimex) huy động vốn mua hàng xuất khẩu lấy ngoại tệ nhập nguyên liệu, vật tư cho sản xuất. Đồng thời, tổ chức một đợt khui các kho dự trữ từ trước đưa vật tư tồn đọng trang trải các xí nghiệp. Nhờ đó, Thành phố đã có nhiều gương sáng điển hình làm ăn theo “cơ chế Thành phố” như Công ty Bột giặt miền Nam, Dệt Thành Công, Công ty Lương thực Thành phố, Xí nghiệp Thuốc lá Thành phố, Bia Sài Gòn, Dệt Phong Phú, Phước Long, Caric, Sinco. Hàng vạn lao động tiên tiến, chiến sỹ thi đua, tổ đội Lao động xã hội chủ nghĩa xuất hiện được Hội đồng Nhà nước tặng huân chương, Hội đồng Bộ trưởng cấp Bằng khen…
Cũng trong thời gian này, xuất hiện những “biệt danh lịch sử” như “Bí thư gạo”, “Chủ tịch phá rào”, “Công ty buôn lậu”, “Các chiến sỹ làm lén”… Nhân dân phấn khởi, sản xuất kinh doanh khởi sắc và phát triển, song Thành phố phải gánh chịu bao cuộc thanh kiểm tra, phê phán, thậm chí quy chụp vì Thành phố làm khác với cái đang thịnh hành được coi là “khuôn phép” chung. Thực tiễn là người Thầy kiểm nghiệm khắt khe nhất, chính xác nhất; cách làm theo cơ chế của thành phố lúc đầu cho là “phá rào”, “xé rào”, sau này được nghi nhận là “bước đột phá đầu tiên” của quá trình Đổi mới, là “năng động, sáng tạo”, “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” như là thuộc tính, đặc trưng mang tính đặc thù, là thương hiệu của Thành phố mang tên Bác Hồ vĩ đại.
Ngày càng văn minh, hiện đại
35 năm cùng cả nước thực hiện công cuộc Đổi mới, thành phố đã có sự tăng tốc mạnh mẽ, vững bước xây dựng Thành phố ngày càng “to đẹp hơn” theo hướng văn minh, hiện đại. “Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ …, là đầu tàu, động lực có sức thu hút và lan tỏa…”[3]. Bước vào Đổi mới, GDP Thành phố chỉ chiếm 13%-14% của cả nước, qua 35 năm đã chiếm 21,5%, có năm đạt cao hơn. Mức tăng trưởng bình quân hàng năm từ 2010 trở về trước thường gấp 1,5 lần mức tăng bình quân của cả nước. Tổng thu ngân sách gần 1/3 của cả nước, mức sống bình quân GDP/đầu người thường gấp 3 lần mức bình quân của cả nước. Thành phố đã xây dựng những trung tâm sản xuất, kinh doanh hiện đại và có hiệu quả cao vào bậc nhất cả nước như Khu Chế xuất Tân Thuận, Khu Công nghệ cao, Công viên phần mềm Quang Trung…
Tự hào 45 năm Thành phố Sài Gòn – Gia Định chính thức mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh. (Ảnh: Nguyễn Hoàng)
Diện mạo đô thị sau 45 năm Thành phố mang tên Bác ngày càng văn minh, hiện đại. Vượt qua 20 năm đầu (1976 – 1995) với những bước thăng trầm chất chồng khó khăn, Thành phố bước vào một thời kỳ phát triển một số lĩnh vực (1996 – 2005) rồi sang giai đoạn phát triển nhanh, hiện đại hóa (từ 2006 đến nay), làm thay đổi diện mạo thành phố theo hướng ngày càng “to đẹp hơn”, hiện đại văn minh hơn.
Hình hài một thành phố Hồ Chí Minh hiện đại gồm khu vực trung tâm hiện hữu cùng với Thành phố Thủ Đức và các khu đô thị Bắc, Tây, Nam gắn với chuỗi đô thị của vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam… Với kết cấu hạ tầng đa chiều, xuyên tâm đang được hình thành. Có người tỏ bày với tôi, đầu óc họ nghĩ ra lắm thứ hay, nhưng chưa bao giờ nghĩ ra được ở vùng đầm lầy, sông rạch chi chít ở Nam Thành phố lại có thể xây lên được một Khu đô thị khang trang hiện đại mang dáng dấp đô thị ngoại quốc. Đúng vậy, Khu Đô thị Nam Sài Gòn có diện tích 3.000 ha với điểm nhấn là đô thị Phú Mỹ Hưng là khu đô thị mới kiểu mẫu của Thành phố Hồ Chí Minh và trên phạm vi toàn quốc, thu hút mọi người gần xa…
PGS.TS Phan Xuân Biên
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương,
Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam